Ngày 22/12/2024, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Tổng Bí thư Tô Lâm làm Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Nghị quyết nêu rõ: Phát
triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang là yếu tố quyết
định phát triển của các quốc gia; là điều kiện tiên quyết, thời cơ tốt nhất để
nước ta phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn
mình của Dân tộc.
Thời gian qua, Đảng, Nhà nước ta
đã có nhiều chủ trương, chính sách đẩy mạnh ứng dụng, phát triển khoa học, công
nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, chủ động, tích cực tham gia
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tuy
nhiên, tốc độ và sự bứt phá về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo
và chuyển đổi số quốc gia còn chậm; quy mô, tiềm lực, trình độ khoa học, công
nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia còn khoảng cách xa so với nhóm các nước phát
triển; nhận thức của nhiều cấp, nhiều ngành, cán bộ, công chức và Nhân dân về
chuyển đổi số chưa đầy đủ và sâu sắc; nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ,
đổi mới sáng tạo chưa có bước đột phá, chưa làm chủ được công nghệ chiến lược,
công nghệ cốt lõi; thể chế pháp luật, cơ chế, chính sách chưa đáp ứng yêu cầu;
nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu; hạ tầng chưa đồng bộ, nhất là hạ tầng
số còn nhiều hạn chế; an ninh, an toàn thông tin, bảo vệ dữ liệu còn nhiều
thách thức.
Đất nước ta đang đứng trước yêu cầu
cần có chủ trương, quyết sách mạnh mẽ, mang tính chiến lược và cách mạng để tạo
xung lực mới, đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển
đổi số, để đưa đất nước phát triển mạnh mẽ trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên giàu
mạnh, hùng cường, thực hiện thắng lợi mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam trở thành
nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm
2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Từ tình hình trên, Bộ Chính trị
yêu cầu quán triệt thực hiện tốt các nội dung sau:
I- QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO
1. Phát triển khoa học,
công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột phá quan
trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại,
hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển
kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá,
giàu mạnh trong kỷ nguyên mới.
2. Tăng cường sự lãnh
đạo toàn diện của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, sự
tham gia tích cực của doanh nhân, doanh nghiệp và Nhân dân đối với phát triển
khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Xác định đây
là cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực; được triển khai
quyết liệt, kiên trì, đồng bộ, nhất quán, lâu dài với những giải pháp đột phá,
mang tính cách mạng. Người dân và doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể, nguồn
lực, động lực chính; nhà khoa học là nhân tố then chốt; Nhà nước giữ vai trò dẫn
dắt, thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho phát triển khoa học, công nghệ,
đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
3. Thể chế, nhân lực,
hạ tầng, dữ liệu và công nghệ chiến lược là những nội dung trọng tâm, cốt lõi,
trong đó thể chế là điều kiện tiên quyết, cần hoàn thiện và đi trước một bước.
Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật bảo đảm yêu cầu quản lý và khuyến khích đổi mới
sáng tạo, loại bỏ tư duy "không quản được thì cấm". Chú trọng bảo đảm
nguồn nhân lực trình độ cao cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo
và chuyển đổi số quốc gia; có cơ chế, chính sách đặc biệt về nhân tài. Phát triển
hạ tầng, nhất là hạ tầng số, công nghệ số trên nguyên tắc "hiện đại, đồng
bộ, an ninh, an toàn, hiệu quả, tránh lãng phí"; làm giàu, khai thác tối
đa tiềm năng của dữ liệu, đưa dữ liệu thành tư liệu sản xuất chính, thúc đẩy
phát triển nhanh cơ sở dữ liệu lớn, công nghiệp dữ liệu, kinh tế dữ liệu.
4. Phát triển nhanh
và bền vững, từng bước tự chủ về công nghệ, nhất là công nghệ chiến lược; ưu
tiên nguồn lực quốc gia đầu tư cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng
tạo và chuyển đổi số. Phát huy tối đa tiềm năng, trí tuệ Việt Nam gắn với nhanh
chóng tiếp thu, hấp thụ, làm chủ và ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ tiên
tiến của thế giới; đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng, chú trọng nghiên cứu cơ bản,
tiến tới tự chủ và cạnh tranh về công nghệ ở một số lĩnh vực Việt Nam có nhu cầu,
tiềm năng, lợi thế.
5. Bảo đảm chủ quyền
quốc gia trên không gian mạng; bảo đảm an ninh mạng, an ninh dữ liệu, an toàn
thông tin của tổ chức và cá nhân là yêu cầu xuyên suốt, không thể tách rời
trong quá trình phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi
số quốc gia.
II- MỤC TIÊU
1. Đến năm 2030
- Tiềm lực, trình độ khoa học,
công nghệ và đổi mới sáng tạo đạt mức tiên tiến ở nhiều lĩnh vực quan trọng,
thuộc nhóm dẫn đầu trong các nước có thu nhập trung bình cao; trình độ, năng lực
công nghệ, đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp đạt mức trên trung bình của thế giới;
một số lĩnh vực khoa học, công nghệ đạt trình độ quốc tế. Việt Nam thuộc nhóm 3
nước dẫn đầu Đông Nam Á, nhóm 50 nước đứng đầu thế giới về năng lực cạnh tranh
số và chỉ số phát triển Chính phủ điện tử; nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực Đông Nam
Á về nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo, trung tâm phát triển một số
ngành, lĩnh vực công nghiệp công nghệ số mà Việt Nam có lợi thế. Tối thiểu có 5
doanh nghiệp công nghệ số ngang tầm các nước tiên tiến.
- Đóng góp của năng suất nhân tố
tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế ở mức trên 55%; tỉ trọng xuất khẩu sản
phẩm công nghệ cao trên tổng giá trị hàng hoá xuất khẩu đạt tối thiểu 50%. Quy
mô kinh tế số đạt tối thiểu 30% GDP. Tỉ lệ sử dụng dịch vụ công trực tuyến của
người dân và doanh nghiệp đạt trên 80%; giao dịch không dùng tiền mặt đạt 80%.
Tỉ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo đạt trên 40% trong tổng số
doanh nghiệp. Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo góp phần quan trọng xây dựng,
phát triển giá trị văn hoá, xã hội, con người Việt Nam, đóng góp vào chỉ số
phát triển con người (HDI) duy trì trên 0,7.
- Kinh phí chi cho nghiên cứu
phát triển (R&D) đạt 2% GDP, trong đó kinh phí từ xã hội chiếm hơn 60%; bố
trí ít nhất 3% tổng chi ngân sách hằng năm cho phát triển khoa học, công nghệ,
đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia và tăng dần theo yêu cầu phát triển. Hệ
thống tổ chức khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo được sắp xếp lại bảo đảm hiệu
lực, hiệu quả, gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu - ứng dụng - đào tạo. Nguồn
nhân lực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo đạt 12 người
trên một vạn dân; có từ 40 - 50 tổ chức khoa học và công nghệ được xếp hạng khu
vực và thế giới; số lượng công bố khoa học quốc tế tăng trung bình 10%/năm; số
lượng đơn đăng ký sáng chế, văn bằng bảo hộ sáng chế tăng trung bình 16 -
18%/năm, tỉ lệ khai thác thương mại đạt 8 - 10%.
- Hạ tầng công nghệ số tiên tiến,
hiện đại, dung lượng siêu lớn, băng thông siêu rộng ngang tầm các nước tiên tiến;
từng bước làm chủ một số công nghệ chiến lược, công nghệ số như: Trí tuệ nhân tạo,
Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn, điện toán đám mây, chuỗi khối, bán dẫn,
công nghệ lượng tử, nano, thông tin di động 5G, 6G, thông tin vệ tinh và một số
công nghệ mới nổi. Phủ sóng 5G toàn quốc. Hoàn thành xây dựng đô thị thông minh
đối với các thành phố trực thuộc Trung ương và một số tỉnh, thành phố có đủ điều
kiện. Thu hút thêm ít nhất 3 tổ chức, doanh nghiệp công nghệ hàng đầu thế giới
đặt trụ sở, đầu tư nghiên cứu, sản xuất tại Việt Nam.
- Quản lý nhà nước từ Trung ương
đến địa phương trên môi trường số, kết nối và vận hành thông suốt giữa các cơ
quan trong hệ thống chính trị. Hoàn thành xây dựng, kết nối, chia sẻ đồng bộ cơ
sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu các ngành; khai thác và sử dụng có hiệu quả
tài nguyên số, dữ liệu số, hình thành sàn giao dịch dữ liệu. Phát triển Chính
phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số, công nghiệp văn hoá số đạt mức cao
của thế giới. Việt Nam thuộc nhóm các nước dẫn đầu về an toàn, an ninh không
gian mạng, an ninh dữ liệu và bảo vệ dữ liệu.
2. Tầm nhìn đến năm 2045
Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng
tạo và chuyển đổi số phát triển vững chắc, góp phần đưa Việt Nam trở thành nước
phát triển, có thu nhập cao. Việt Nam có quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 50%
GDP; là một trong các trung tâm công nghiệp công nghệ số của khu vực và thế giới;
thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu thế giới về đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Tỉ lệ
doanh nghiệp công nghệ số tương đương các nước phát triển; tối thiểu có 10
doanh nghiệp công nghệ số ngang tầm các nước tiên tiến. Thu hút thêm ít nhất 5
tổ chức, doanh nghiệp công nghệ hàng đầu thế giới đặt trụ sở, đầu tư nghiên cứu,
sản xuất tại Việt Nam.
III- NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP
1. Nâng cao nhận thức, đột
phá về đổi mới tư duy, xác định quyết tâm chính trị mạnh mẽ, quyết liệt
lãnh đạo, chỉ đạo, tạo xung lực mới, khí thế mới trong toàn xã hội về phát triển
khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia
- Các cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ,
đảng viên cần nhận thức đầy đủ tầm quan trọng và quán triệt sâu sắc các quan điểm,
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về chuyển đổi số, phát triển khoa học,
công nghệ, đổi mới sáng tạo, xác định rõ trách nhiệm, chủ động triển khai thực
hiện. Người đứng đầu phải trực tiếp phụ trách, chỉ đạo; cán bộ, đảng viên phải
gương mẫu thực hiện. Nhiệm vụ chuyển đổi số, phát triển khoa học, công nghệ, đổi
mới sáng tạo được xác định cụ thể trong chương trình, kế hoạch công tác hằng
năm của cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương; kết quả thực hiện là tiêu chí
đánh giá hiệu quả thực hiện nhiệm vụ, đánh giá thi đua, khen thưởng hằng năm. Bố
trí phù hợp số lượng cán bộ có trình độ chuyên môn khoa học kỹ thuật trong cấp
uỷ các cấp. Phát huy tinh thần sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm
của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới
sáng tạo và chuyển đổi số.
- Có chương trình tuyên truyền,
giáo dục hiệu quả để nâng cao nhận thức, quyết tâm, phát triển khoa học, công
nghệ và đổi mới sáng tạo, thực hiện chuyển đổi số trong cả hệ thống chính trị,
người dân và doanh nghiệp, tạo niềm tin, khí thế mới trong xã hội. Triển khai
sâu rộng phong trào "học tập số", phổ cập, nâng cao kiến
thức khoa học, công nghệ, kiến thức số trong cán bộ, công chức và Nhân dân; các
phong trào khởi nghiệp, sáng tạo, cải tiến nâng cao hiệu quả công việc, năng suất
lao động, khơi dậy tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc,
phát huy trí tuệ Việt Nam thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ phát triển
khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Mở rộng đa dạng
các hình thức tôn vinh, biểu dương, khen thưởng kịp thời, xứng đáng các nhà
khoa học, nhà sáng chế, các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có thành tích trong
phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; trân trọng từng
phát minh, sáng chế, cải tiến kỹ thuật, sáng kiến nâng cao hiệu quả công tác,
hiệu suất công việc, dù là nhỏ nhất.
2. Khẩn trương, quyết liệt
hoàn thiện thể chế; xoá bỏ mọi tư tưởng, quan niệm, rào cản đang cản trở sự
phát triển; đưa thể chế thành một lợi thế cạnh tranh trong phát triển khoa học,
công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số
Tiếp tục thể chế hoá
đầy đủ và thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về phát triển giáo dục và đào tạo;
khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia. Tập trung triển
khai tốt các nội dung sau:
- Khẩn trương sửa đổi, bổ sung,
hoàn thiện đồng bộ các quy định pháp luật về khoa học, công nghệ, đầu tư, đầu
tư công, mua sắm công, ngân sách nhà nước, tài sản công, sở hữu trí tuệ, thuế…
để tháo gỡ các điểm nghẽn, rào cản, giải phóng các nguồn lực, khuyến khích,
phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia, phát
triển nguồn nhân lực; cải cách phương thức quản lý, triển khai các nhiệm vụ
khoa học và công nghệ phù hợp với từng loại hình nghiên cứu; cải cách cơ chế quản
lý tài chính trong việc thực hiện nhiệm vụ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo
và chuyển đổi số, đơn giản hoá tối đa các thủ tục hành chính; giao quyền tự chủ
trong sử dụng kinh phí nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ.
- Có cách tiếp cận mở, vận dụng
sáng tạo, cho phép thí điểm đối với những vấn đề thực tiễn mới đặt ra. Chấp nhận
rủi ro, đầu tư mạo hiểm và độ trễ trong nghiên cứu khoa học, phát triển công
nghệ, đổi mới sáng tạo. Có cơ chế thí điểm để doanh nghiệp thử nghiệm công nghệ
mới có sự giám sát của Nhà nước; có chính sách miễn trừ trách nhiệm đối với
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong trường hợp thử nghiệm công nghệ mới, mô
hình kinh doanh mới mà có thiệt hại về kinh tế do nguyên nhân khách quan. Hình
thành các quỹ đầu tư mạo hiểm cho khởi nghiệp sáng tạo, ươm tạo công nghệ và
chuyển đổi số.
- Thống nhất, nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Phát triển các viện nghiên cứu, trường đại học trở thành các chủ thể nghiên cứu
mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo. Đầu tư, nâng cấp
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam, cùng các cơ sở nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo trọng điểm quốc
gia. Sáp nhập, giải thể các tổ chức khoa học và công nghệ hoạt động không hiệu
quả. Có cơ chế, chính sách hỗ trợ, phát triển các tổ chức nghiên cứu khoa học
và công nghệ công lập hoạt động hiệu quả; giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
về tổ chức, cán bộ, tài chính, chuyên môn; được sử dụng ngân sách nhà nước thuê
chuyên gia, sử dụng tài sản hữu hình và trí tuệ để liên kết, hợp tác khoa học
và công nghệ với các tổ chức, doanh nghiệp. Có cơ chế cho phép và khuyến khích
các tổ chức nghiên cứu, nhà khoa học thành lập và tham gia điều hành doanh nghiệp
dựa trên kết quả nghiên cứu.
- Thu hút, sử dụng có hiệu quả mọi
nguồn lực đầu tư cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi
số quốc gia. Ngân sách chi cho nghiên cứu, phát triển khoa học, công nghệ ưu
tiên thực hiện theo cơ chế quỹ, thông qua các quỹ phát triển khoa học và công
nghệ. Cơ cấu lại nguồn ngân sách chi sự nghiệp khoa học và công nghệ bảo đảm tập
trung, có trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải. Có cơ chế khuyến khích mua sắm
công đối với các sản phẩm, hàng hoá là kết quả nghiên cứu khoa học do doanh nghiệp
trong nước tạo ra. Có cơ chế đặc biệt trong nghiên cứu, tiếp cận, mua các bí mật
công nghệ, học hỏi, sao chép các công nghệ tiên tiến của nước ngoài.
3. Tăng cường đầu tư,
hoàn thiện hạ tầng cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi
số quốc gia
- Ban hành Chương trình phát triển
công nghệ và công nghiệp chiến lược; Quỹ đầu tư phát triển công nghiệp chiến lược
(ưu tiên các lĩnh vực quốc phòng, không gian, năng lượng, môi trường, công nghệ
sinh học, trí tuệ nhân tạo, vật liệu tiên tiến, bán dẫn, công nghệ lượng tử,
robot và tự động hoá…); có cơ chế thử nghiệm chính sách nhằm thúc đẩy nghiên cứu,
phát triển, ứng dụng, chuyển giao công nghệ chiến lược. Bố trí ít nhất 15% ngân
sách nhà nước chi sự nghiệp khoa học phục vụ nghiên cứu công nghệ chiến lược;
ban hành cơ chế, chính sách hợp tác công tư để nghiên cứu và phát triển công
nghệ chiến lược.
- Ban hành các chiến
lược nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ trong khai thác, phát triển không
gian biển, không gian ngầm, không gian vũ trụ. Chú trọng phát triển
hạ tầng năng lượng, nhất là năng lượng mới, năng lượng sạch và bảo đảm an ninh
năng lượng cho phát triển khoa học, công nghệ, các ngành công nghiệp chiến lược.
Quản lý chặt chẽ, khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên khoáng sản
của đất nước, nhất là đất hiếm để phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng
tạo.
- Phát triển hệ thống các trung
tâm nghiên cứu, thử nghiệm, các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, tập trung
cho công nghệ chiến lược. Có cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích các tổ chức,
cá nhân, doanh nghiệp đầu tư, xây dựng các phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu
và phát triển khoa học, công nghệ.
- Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển
công nghệ số. Ban hành chính sách khuyến khích đầu tư, mua, thuê các sản phẩm,
dịch vụ số; chính sách đặc biệt để đào tạo, phát triển, thu hút tổ chức, cá
nhân, doanh nghiệp trong và ngoài nước hoạt động lĩnh vực chuyển đổi số, phát
triển sản phẩm công nghệ số, công nghiệp an ninh mạng. Xây dựng và dùng chung
các nền tảng số quốc gia, vùng, bảo đảm hoạt động thống nhất, liên thông của
các ngành, lĩnh vực trên môi trường số. Thúc đẩy hệ sinh thái kinh tế số trên
các lĩnh vực.
- Có cơ chế hợp tác công tư để
phát triển hạ tầng số hiện đại, trong đó nguồn lực nhà nước là chủ yếu. Phát
triển hạ tầng viễn thông, Internet đáp ứng yêu cầu dự phòng, kết nối, an toàn,
bền vững, hệ thống truyền dẫn dữ liệu qua vệ tinh, mạng cáp quang băng thông rộng
tốc độ cao phủ sóng toàn quốc, mạng thông tin di động 5G, 6G và các thế hệ tiếp
theo. Phát triển hạ tầng vật lý số, hạ tầng tiện ích số; tích hợp cảm biến, ứng
dụng công nghệ số vào hạ tầng thiết yếu. Phát triển ngành công nghiệp IoT, xây
dựng một số cụm công nghiệp IoT di động.
- Có cơ chế, chính sách hỗ trợ
các doanh nghiệp trong nước đầu tư, xây dựng trung tâm dữ liệu, điện toán đám
mây; thu hút doanh nghiệp nước ngoài đặt trung tâm dữ liệu, điện toán đám mây tại
Việt Nam. Hình thành hạ tầng lưu trữ, tính toán đạt tiêu chuẩn quốc tế, tiêu
chuẩn xanh. Sớm hoàn thành và phát huy hiệu quả Trung tâm dữ liệu quốc gia; đầu
tư xây dựng các trung tâm dữ liệu vùng. Xây dựng, phát huy hiệu quả dữ liệu quốc
gia, dữ liệu của bộ, ngành, địa phương bảo đảm liên thông, tích hợp, chia sẻ.
Có cơ chế, chính sách bảo đảm dữ liệu thành nguồn tài nguyên tư liệu sản xuất
quan trọng. Xác lập quyền sở hữu, kinh doanh dữ liệu và phân phối giá trị tạo
ra từ dữ liệu. Phát triển kinh tế dữ liệu, thị trường dữ liệu và các sàn giao dịch
dữ liệu. Xây dựng các cơ sở dữ liệu lớn có chủ quyền của Việt Nam. Hình thành
ngành công nghiệp dữ liệu lớn của Việt Nam. Phát triển mạnh mẽ ứng dụng trí tuệ
nhân tạo dựa trên dữ liệu lớn đối với các ngành, lĩnh vực quan trọng.
4. Phát triển, trọng dụng nhân
lực chất lượng cao, nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ,
đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia
- Tăng cường đầu tư, đổi mới,
nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, bảo đảm nguồn nhân lực chất lượng cao
đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi
số quốc gia. Có cơ chế, chính sách hấp dẫn về tín dụng, học bổng và học phí để
thu hút học sinh, sinh viên giỏi theo học các lĩnh vực toán học, vật lý, sinh học,
hoá học, kỹ thuật và công nghệ then chốt, nhất là ở các trình độ sau đại học.
Xây dựng và triển khai các chương trình đào tạo tài năng trên các lĩnh vực. Ban
hành cơ chế đặc thù thu hút người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài có
trình độ cao về Việt Nam làm việc, sinh sống. Có cơ chế đặc biệt về nhập quốc tịch,
sở hữu nhà, đất, thu nhập, môi trường làm việc nhằm thu hút, trọng dụng, giữ
chân các nhà khoa học đầu ngành, các chuyên gia, các "tổng công trình
sư" trong và ngoài nước có khả năng tổ chức, điều hành, chỉ huy, triển
khai các nhiệm vụ trọng điểm quốc gia về khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo,
chuyển đổi số, phát triển công nghệ trí tuệ nhân tạo và đào tạo nguồn nhân lực.
Xây dựng, kết nối và phát triển mạng lưới chuyên gia, nhà khoa học trong nước
và quốc tế.
- Xây dựng một số trường, trung
tâm đào tạo tiên tiến chuyên sâu về trí tuệ nhân tạo. Có cơ chế đặc thù về hợp
tác công tư trong đào tạo nhân lực công nghệ số. Xây dựng nền tảng giáo dục,
đào tạo trực tuyến, mô hình giáo dục đại học số, nâng cao năng lực số trong xã
hội.
- Phát triển đội ngũ giảng viên,
các nhà khoa học đủ năng lực, trình độ đáp ứng việc giảng dạy lĩnh vực khoa học
cơ bản, công nghệ chip bán dẫn, vi mạch, kỹ thuật và công nghệ then chốt; đẩy mạnh
hợp tác với các đại học uy tín của nước ngoài; đổi mới mạnh mẽ chương trình đào
tạo theo chuẩn quốc tế, hiện đại hoá phương thức đào tạo và ứng dụng công nghệ
tiên tiến, nhất là trí tuệ nhân tạo.
5. Đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng
dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo trong hoạt động của các cơ quan
trong hệ thống chính trị; nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia, hiệu lực
quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, bảo đảm quốc phòng và an ninh
- Có kế hoạch và lộ trình đưa
toàn bộ hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị lên môi trường số, bảo
đảm liên thông, đồng bộ, bí mật nhà nước. Xây dựng nền tảng số dùng chung quốc
gia, phát triển hệ thống giám sát, điều hành thông minh nhằm tăng cường quản lý
công. Đổi mới toàn diện việc giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ
công không phụ thuộc địa giới hành chính; nâng cao chất lượng dịch vụ công trực
tuyến, dịch vụ số cho người dân và doanh nghiệp, hướng tới cung cấp dịch vụ
công trực tuyến toàn trình, cá nhân hoá và dựa trên dữ liệu; tăng cường giám
sát, đánh giá và trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền
trong phục vụ Nhân dân. Có chính sách đặc thù để thu hút, tuyển dụng, giữ chân
nhân lực về khoa học, công nghệ và chuyển đổi số làm việc trong các cơ quan của
hệ thống chính trị.
- Phát triển các nền tảng số an
toàn và tăng cường ứng dụng công nghệ số, hình thành công dân số. Phát triển một
số mạng xã hội Việt Nam, xây dựng xã hội số an toàn, lành mạnh. Phát triển văn
hoá số bảo đảm giữ gìn bản sắc dân tộc, xây dựng bộ quy tắc ứng xử trên không
gian mạng, giảm thiểu tác động tiêu cực của công nghệ số đối với xã hội. Xây dựng
nền tảng số nhằm giám sát, thu thập dữ liệu lĩnh vực tài nguyên, môi trường.
- Bảo đảm an toàn, an ninh mạng
và chủ quyền quốc gia trên nền tảng số và không gian mạng; an ninh, an toàn dữ
liệu hợp pháp của tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp và chủ quyền an ninh dữ liệu
quốc gia. Hiện đại hoá vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự, an ninh. Từng bước ứng
dụng công nghệ số trong chỉ huy, điều hành tác chiến của lực lượng vũ trang
cũng như làm chủ công nghệ cao trong hoạt động quốc phòng, an ninh. Ngăn chặn
hiệu quả tội phạm lĩnh vực chuyển đổi số, chống lừa đảo trực tuyến. Xây dựng,
phát huy sức mạnh thế trận chiến tranh nhân dân, thế trận lòng dân trên không
gian mạng để bảo vệ Tổ quốc.
6. Thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động
khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong doanh nghiệp
- Có các chính sách ưu đãi, khuyến
khích doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư cho chuyển đổi số,
nghiên cứu, ứng dụng khoa học, đổi mới công nghệ để nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh, quản trị doanh nghiệp; đẩy mạnh chuyển giao tri thức, đào tạo nhân
lực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo thông qua doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI); hỗ trợ doanh nghiệp công nghệ trong nước đầu tư ra
nước ngoài.
- Có chính sách đủ mạnh khuyến
khích tinh thần khởi nghiệp về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển
đổi số, cùng với chính sách hỗ trợ khởi nghiệp và thu hút các doanh nghiệp
trong và ngoài nước khởi nghiệp tại Việt Nam.
- Có cơ chế, chính sách hỗ trợ
hình thành và phát triển một số doanh nghiệp công nghệ số chiến lược trong nước
quy mô lớn để phát triển hạ tầng số, dẫn dắt chuyển đổi số quốc gia và đủ năng
lực cạnh tranh quốc tế; cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ cho các doanh nghiệp
công nghệ số thực hiện các nhiệm vụ trọng điểm về chuyển đổi số; cơ chế ưu đãi
về đất đai, tín dụng, thuế trong nghiên cứu, thử nghiệm, ứng dụng, phát triển,
sản xuất sản phẩm, dịch vụ công nghệ số. Phát triển một số khu công nghiệp công
nghệ số. Thúc đẩy doanh nghiệp tái đầu tư hạ tầng, đầu tư nghiên cứu và phát
triển (R&D).
- Đẩy mạnh tiêu dùng sản phẩm, dịch
vụ trên môi trường số, bảo đảm kinh tế số các ngành, lĩnh vực chiếm tối thiểu
70% kinh tế số; đẩy mạnh sản xuất thông minh trong các ngành, lĩnh vực: Nông
nghiệp, thương mại, tài chính, giáo dục, y tế, giao thông, logistics.
7. Tăng cường hợp
tác quốc tế trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và
chuyển đổi số
Tập trung đẩy mạnh hợp tác nghiên
cứu khoa học, phát triển công nghệ với các quốc gia có trình độ khoa học và
công nghệ, chuyển đổi số phát triển, nhất là các lĩnh vực trí tuệ nhân tạo,
công nghệ sinh học, công nghệ lượng tử, bán dẫn, năng lượng nguyên tử và các
công nghệ chiến lược khác. Có chính sách mua, chuyển giao công nghệ tiên tiến
phù hợp với điều kiện Việt Nam. Chủ động, tích cực tham gia xây dựng các quy tắc,
tiêu chuẩn quốc tế về các công nghệ mới bảo đảm an toàn và cùng có lợi. Thúc đẩy
nâng cao năng lực và chuyển giao công nghệ trong các thoả thuận quốc tế, điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên tham gia.
IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Thành lập Ban Chỉ
đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi
số, do đồng chí Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng làm Trưởng Ban. Thành
lập Hội đồng Tư vấn quốc gia về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo
và chuyển đổi số với sự tham gia của các chuyên gia trong và ngoài nước.
2. Đảng đoàn Quốc hội
lãnh đạo, chỉ đạo rà soát, hoàn thiện pháp luật về phát triển khoa học, công
nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; tăng cường giám sát thực hiện theo quy
định.
3. Ban cán sự đảng
Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng chương trình hành động triển khai thực hiện
Nghị quyết; phối hợp với Đảng đoàn Quốc hội thể chế hoá đầy đủ các chủ trương,
chính sách nêu trong Nghị quyết này và bố trí đủ nguồn lực để thực hiện, cơ bản
hoàn thành trong năm 2025.
4. Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng chương
trình, kế hoạch hướng dẫn, vận động Nhân dân thực hiện Nghị quyết, phát huy vai
trò giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng pháp luật, cơ chế, chính sách
về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
5. Ban Tuyên giáo
Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan hướng dẫn việc quán triệt
thực hiện Nghị quyết; hướng dẫn tăng cường tuyên truyền các nội dung của Nghị
quyết.
6. Văn phòng Trung
ương Đảng phối hợp với Ban Kinh tế Trung ương theo dõi, kiểm tra, đánh giá kết
quả thực hiện Nghị quyết; định kỳ 6 tháng báo cáo kết quả với Ban Chỉ đạo Trung
ương và Bộ Chính trị để chỉ đạo.
Nghị quyết này phổ biến đến chi bộ./.