Ngày 12/8/2024, Ban Chấp hành
Trung ương ban hành Kết luận số 91-KL/TW của Bộ Chính trị tiếp tục thực hiện
Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
XI "Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế".
* * *
Sau 10 năm triển khai thực hiện
Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04.11.2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
XI "Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế" (sau đây gọi tắt là Nghị quyết
29-NQ/TW), giáo dục và đào tạo nước ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.
Cả nước đã hoàn thành phổ cập
giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; duy trì vững chắc, từng bước nâng cao chất
lượng phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở; giáo dục phổ thông chuyển
hướng tích cực từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện phẩm chất,
năng lực người học; chất lượng giáo dục phổ thông đại trà và mũi nhọn ngày càng
nâng cao.
Giáo dục thường xuyên phát triển
đa dạng về nội dung và hình thức; các phong trào thi đua học tập, khuyến học,
khuyến tài, xây dựng xã hội học tập được quan tâm thực hiện.
Giáo dục nghề nghiệp đã phát triển
mạnh về số lượng và chú trọng nâng cao chất lượng từng bước đáp ứng tốt hơn nhu
cầu của thị trường lao động.
Giáo dục đại học tiếp tục đổi mới,
gắn với tăng cường tự chủ đã tạo ra động lực mới, tạo chuyển biến mạnh về chất
lượng, hiệu quả trong đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu khoa học; số lượng
chương trình đào tạo được kiểm định và công bố khoa học quốc tế tăng mạnh, một
số cơ sở giáo dục đại học và nhóm ngành đào tạo được xếp hạng cao trong khu vực
và thế giới.
Phương pháp dạy - học và công tác
thi, kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục được đổi mới theo hướng hiện đại,
ngày càng thực chất, hiệu quả hơn. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
cơ bản được chuẩn hoá, từng bước bảo đảm số lượng. Cơ sở vật chất, trang thiết
bị dạy học được cải thiện, bước đầu đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, đào tạo.
Bên cạnh những kết quả đạt được,
việc thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW còn một số hạn chế, bất cập; việc thể chế
hoá một số nội dung của Nghị quyết thành chính sách, pháp luật phục vụ đổi mới
giáo dục và đào tạo, quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học chậm được ban
hành; việc thực hiện tự chủ trong các cơ sở giáo dục, đào tạo, triển khai
chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới còn gặp nhiều khó khăn;
liên thông giữa các cấp học, trình độ đào tạo, phân luồng học sinh sau trung học
cơ sở còn bất cập.
Giáo dục nghề nghiệp và giáo dục
đại học chưa thực sự gắn với thị trường lao động, chưa đáp ứng yêu cầu nhân lực
cho các ngành kinh tế mới, công nghệ cao; trình độ ngoại ngữ, trong đó có tiếng
Anh của lao động qua đào tạo còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Tỉ
lệ học sau đại học, nhất là các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật và công nghệ
còn thấp. Cơ cấu, số lượng đội ngũ nhà giáo ở nhiều địa phương chưa hợp lý, chất
lượng chưa đồng đều.
Chính sách, cơ chế tài chính cho
giáo dục còn bất cập; tỉ lệ phòng học chưa kiên cố hoá còn cao, cơ sở vật chất,
trang thiết bị dạy học còn thiếu, nhất là ở khu vực miền núi, khu công nghiệp,
khu vực đông dân cư. Một số chỉ tiêu Nghị quyết đề ra chưa hoàn thành; công tác
truyền thông về đổi mới giáo dục và đào tạo, xã hội hoá giáo dục và hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo còn có mặt hạn chế, chưa thu
hút được nhiều nguồn lực ngoài nhà nước đầu tư cho giáo dục...
Để phát huy những thành tựu đạt
được, khắc phục hiệu quả những hạn chế, bất cập trên nhằm tiếp tục đẩy mạnh đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước
trong giai đoạn mới, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự
phát triển mạnh mẽ của công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, đưa giáo dục và đào tạo
Việt Nam đạt trình độ tiên tiến của khu vực Châu Á vào năm 2030 và đạt trình độ
tiên tiến của thế giới vào năm 2045, Bộ Chính trị yêu cầu các cấp uỷ đảng,
chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục
quán triệt, thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ,
giải pháp đã nêu trong Nghị quyết 29-NQ/TW, Nghị quyết Đại hội XIII và các nghị
quyết khác của Đảng về giáo dục và đào tạo; đồng thời tập trung thực hiện tốt
các nhiệm vụ sau:
1. Các cấp uỷ, tổ chức đảng,
chính quyền, người đứng đầu địa phương, đơn vị tiếp tục nâng cao nhận thức,
tăng cường trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt và thực hiện đầy đủ, sâu sắc
quan điểm coi giáo dục và đào tạo là "quốc sách hàng đầu", là sự nghiệp
của Đảng, Nhà nước và của toàn dân; bảo đảm vai trò chủ đạo của Nhà nước, đồng
thời thu hút sự tham gia tích cực của xã hội trong phát triển sự nghiệp giáo dục
và đào tạo; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển, được ưu
tiên trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Chú trọng công tác xây dựng
Đảng trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo; phát huy vai trò của các cấp uỷ cơ sở
giáo dục, đào tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các mục tiêu phát triển
giáo dục và đào tạo.
Tiếp tục tuyên truyền, quán triệt
sâu rộng và hiệu quả hơn về mục tiêu, yêu cầu, nội dung đổi mới giáo dục và đào
tạo, trước hết là đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp và đội ngũ nhà giáo
trong cả nước nhằm tạo sự đồng bộ, thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo và triển
khai thực hiện, tạo sự tin tưởng, đồng thuận, ủng hộ của các tầng lớp nhân dân.
2. Tập trung rà soát, sửa
đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về giáo dục và đào tạo,
tháo gỡ những điểm nghẽn, trong đó, cần sớm xây dựng Luật về nhà giáo, Luật về
học tập suốt đời, Chiến lược phát triển giáo dục và các quy định về đổi mới
công tác quản lý giáo dục và đào tạo, quản trị nhà trường theo hướng khoa học,
hiện đại, đồng bộ, liên thông, phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế và thực
tiễn ở nước ta.
Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
về giáo dục và đào tạo; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; tăng cường vai trò của
các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục, đào tạo trong việc quyết định biên chế,
tổ chức bộ máy, chính sách đối với nhà giáo và phân bổ ngân sách nhà nước cho
ngành Giáo dục.
Tăng quyền tự chủ, nâng cao trách
nhiệm giải trình, phát huy dân chủ trong các cơ sở giáo dục và đào tạo; hoàn
thiện chính sách, cơ chế tự chủ đối với các cơ sở giáo dục đại học phù hợp với
xu thế chung của thế giới.
Thực hiện việc bí thư cấp uỷ kiêm
chủ tịch hội đồng trường, hội đồng đại học công lập; đồng thời, làm rõ hơn chức
năng, nhiệm vụ, mối quan hệ giữa chủ tịch hội đồng trường với hiệu trưởng để có
quy định phù hợp với thực tiễn, có tính đến đặc thù của các trường thuộc khối
Công an, Quân đội.
Đánh giá toàn diện việc thực hiện
chủ trương sắp xếp, sáp nhập trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm giáo dục
nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên trên cả nước để có giải pháp phù hợp, tạo
thuận lợi cho công tác quản lý và phát triển hệ thống này trong thời gian tới.
Tăng cường và nâng cao chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc
thể chế hoá các chủ trương của Đảng và việc thực hiện chính sách, pháp luật
trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
3. Tiếp tục nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện ở các cấp học mầm non, phổ thông, giáo dục thường
xuyên và giáo dục chính trị, tư tưởng cho học sinh, sinh viên.
Trong đó, ban hành và tổ chức triển
khai hiệu quả chương trình giáo dục mầm non mới với nội dung và phương pháp
tiên tiến, phù hợp với điều kiện thực tiễn; từng bước thực hiện phổ cập giáo dục
mầm non cho trẻ em 3, 4 tuổi; quản lý chặt chẽ các cơ sở giáo dục mầm non ngoài
công lập, nhất là các nhóm trẻ, lớp mẫu giáo, lớp mầm non độc lập.
Tiếp tục hoàn thiện và triển khai
thực hiện có hiệu quả chương trình giáo dục phổ thông mới, tập trung đổi mới mạnh
mẽ phương pháp dạy và học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của người dạy và người học; phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học.
Thực hiện một chương trình giáo dục phổ thông thống nhất cả nước, mỗi môn học
có một hoặc một số sách giáo khoa và xã hội hoá việc biên soạn sách giáo khoa;
thực hiện giáo dục bắt buộc 9 năm.
Phát triển giáo dục thường xuyên
đa dạng về nội dung và hình thức, đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của người
dân. Giảm tỉ lệ mù chữ ở vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Đổi mới, nâng cao chất lượng công
tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, giáo dục quốc
phòng, an ninh gắn với việc xây dựng và phát huy hệ giá trị văn hoá, con người
Việt Nam.
Đẩy mạnh triển khai xây dựng văn
hoá học đường, quan tâm giáo dục cho học sinh, sinh viên lòng yêu nước, lòng tự
hào, tự tôn dân tộc, khơi dậy khát vọng cống hiến phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc. Tăng cường công tác tư vấn học đường, tư vấn hướng nghiệp;
tăng cường sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục học
sinh, sinh viên.
4. Tập trung đầu tư hiện đại
hoá giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và nâng cao tiềm lực nghiên cứu khoa
học trong các cơ sở giáo dục, đào tạo.
Tiếp tục phát triển giáo dục nghề
nghiệp theo hướng mở, linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, hội nhập, gắn với thị trường
lao động, chú trọng cả số lượng, cơ cấu, chất lượng đào tạo, quan tâm công tác
đào tạo lại, đào tạo thường xuyên cho người lao động để thích ứng với sự thay đổi
của nhu cầu thị trường và công nghệ sản xuất; tăng cường định hướng nghề nghiệp
cho thanh thiếu niên ngay từ bậc học phổ thông; đẩy mạnh phân luồng, tăng số lượng
học sinh sau trung học cơ sở, trung học phổ thông vào giáo dục nghề nghiệp; thực
hiện đào tạo nghề, dạy văn hoá, hình thành năng lực nghề nghiệp cho người học tại
các cơ sở giáo dục nghề nghiệp; quan tâm đầu tư, phát triển một số cơ sở giáo dục
nghề nghiệp, ngành, nghề đào tạo đạt trình độ tương đương với khu vực và thế giới.
Tập trung đầu tư chiều sâu, cơ sở
vật chất, nguồn nhân lực chất lượng cao đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp,
giáo dục đại học công lập ở một số ngành, nghề, lĩnh vực mang tầm cỡ khu vực và
quốc tế nhằm tạo đột phá, chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng đào tạo
nguồn nhân lực trình độ cao gắn với nghiên cứu, phát triển khoa học, công nghệ
và đổi mới sáng tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
chuyển đổi số quốc gia và hội nhập quốc tế; chú trọng các ngành, lĩnh vực đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần
hoàn, nhất là các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật, công nghệ và các ngành mới
như trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu, bán dẫn,...
Xây dựng cơ chế, chính sách đột
phá và đầu tư nguồn lực tương xứng để phát triển các đại học quốc gia, đại học
vùng, các cơ sở giáo dục đại học xuất sắc theo hiệp định quốc tế, các cơ sở
giáo dục đại học trọng điểm, cơ sở giáo dục đại học sư phạm ngang tầm các nước
tiên tiến, có đủ năng lực, điều kiện để giữ vai trò nòng cốt trong đào tạo và
nghiên cứu khoa học.
Cho phép các cơ sở giáo dục thuộc
khối Quân đội, Công an đào tạo hệ dân sự đối với các ngành lưỡng dụng một cách
phù hợp để khai thác hiệu quả các nguồn lực, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước.
Đầu tư nâng cao tiềm lực, hoàn
thiện các quy định liên quan đến nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo trong
các cơ sở giáo dục đại học theo hướng tạo thuận lợi, tháo gỡ các nút thắt, rào
cản, tính đến đặc thù về độ trễ và rủi ro trong nghiên cứu khoa học, đổi mới
sáng tạo.
Có cơ chế, chính sách ưu đãi,
khuyến khích thương mại hoá kết quả nghiên cứu khoa học và hợp tác nghiên cứu,
triển khai giữa các cơ sở giáo dục đại học với doanh nghiệp. Thực hiện phân bổ
ngân sách chi sự nghiệp khoa học công nghệ tương xứng với năng lực và kết quả
hoạt động khoa học công nghệ của các cơ sở giáo dục đại học.
5. Tiếp tục hoàn thiện hệ
thống giáo dục quốc dân theo hướng mở, linh hoạt, liên thông, thúc đẩy xã hội học
tập và học tập suốt đời; đẩy mạnh chuyển đổi trong giáo dục và đào tạo.
Tăng cường rà soát, sắp xếp, phát
triển mạng lưới cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông bảo đảm đủ trường, lớp
học, nhất là ở các thành phố lớn, khu công nghiệp, khu vực đông dân cư và miền
núi, bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục; phát triển hệ thống giáo dục
ngoài công lập phù hợp với xu thế của thế giới và điều kiện ở Việt Nam, quan
tâm đầu tư cho giáo dục chất lượng cao.
Thực hiện quy hoạch mạng lưới cơ
sở giáo dục đại học và sư phạm, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, bảo đảm hiệu quả,
phù hợp với mục tiêu phát triển của các vùng kinh tế - xã hội và của cả nước.
Rà soát, ưu tiên bố trí đủ quỹ đất để xây dựng cơ sở giáo dục mầm non, cơ sở
giáo dục phổ thông, cơ sở giáo dục nghề nghiệp và cơ sở giáo dục đại học trên địa
bàn.
Đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi số
trong giáo dục và đào tạo; phát triển giáo dục số, giáo dục thông minh, giáo dục
cá nhân hoá, giáo dục sáng tạo, giáo dục thích ứng với sự phát triển của trí tuệ
nhân tạo; đồng thời, trang bị cho học sinh, sinh viên các kỹ năng thiết yếu để
thích ứng học tập, làm việc hiệu quả, an toàn trong không gian số. Phát triển
các phương thức đào tạo mở, các nền tảng dạy và học trực tuyến mở, phát triển học
liệu mở trực tuyến. Khuyến khích phát triển các mô hình trường học mới như trường
học số, trường học thông minh, trường học hạnh phúc.
6. Phát triển, nâng cao chất
lượng, chuẩn hoá đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục các cấp; bảo đảm
đủ số lượng giáo viên theo định mức quy định; nghiên cứu cơ chế, chính sách điều
động, luân chuyển giáo viên giữa các địa phương để giải quyết căn bản tình trạng
thừa, thiếu giáo viên cục bộ và nâng cao chất lượng giáo dục cho các vùng khó
khăn.
Đổi mới quản lý nhà nước đối với
nhà giáo một cách đồng bộ, gắn với quản lý chuyên môn và chất lượng. Đổi mới mạnh
mẽ cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển dụng, sử dụng, bồi dưỡng, đãi ngộ và trọng
dụng nhân tài làm việc trong ngành Giáo dục; thực hiện chủ trương lương của nhà
giáo được ưu tiên xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự
nghiệp và có thêm phụ cấp tuỳ theo tính chất công việc, theo vùng. Phát huy dân
chủ, tôn trọng tự do sáng tạo, chuyên môn học thuật, đề cao đạo đức, trách nhiệm
của nhà giáo.
7. Tiếp tục đổi mới cơ chế
quản lý, bảo đảm đủ điều kiện cơ sở vật chất và nguồn lực tài chính cho phát
triển giáo dục và đào tạo; bảo đảm ngân sách nhà nước chi cho giáo dục, đào tạo
tối thiểu 20% tổng chi ngân sách nhà nước như Nghị quyết số 29-NQ/TW đã đề ra.
Đồng thời, kịp thời điều chỉnh tăng mức chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và
đào tạo phù hợp với tăng trưởng của nền kinh tế.
Nhà nước bảo đảm kinh phí cho
giáo dục bắt buộc, giáo dục phổ cập, miễn học phí cho trẻ em mẫu giáo 5 tuổi và
thực hiện các nhiệm vụ trọng điểm trong lĩnh vực giáo dục; ưu tiên đầu tư cho
giáo dục, đào tạo vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo.
Triển khai chương trình đầu tư
kiên cố hoá trường học, xoá phòng học tạm, xây dựng trường chuẩn quốc gia và bảo
đảm đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học tối thiểu, nhất là ở các vùng
nông thôn, đồng bào dân tộc, miền núi, biên giới, hải đảo, phấn đấu đến năm
2030 tỉ lệ phòng học được kiên cố hoá đạt 100%; xây dựng, trình cấp có thẩm quyền
phê duyệt chương trình đầu tư công hiện đại hoá giáo dục đại học, giáo dục nghề
nghiệp phù hợp với quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học, sư phạm và cơ sở
giáo dục nghề nghiệp thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 để tạo đột phá
trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách đầu
tư cho giáo dục và đào tạo trên tinh thần Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, đồng thời
đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, huy động sự tham gia hiệu quả của toàn xã hội vào
sự nghiệp giáo dục và đào tạo; nghiên cứu cơ chế phân bổ nguồn lực, chuyển từ hỗ
trợ theo cơ chế cấp phát bình quân sang cơ chế Nhà nước đặt hàng, giao nhiệm vụ
hoặc đấu thầu cung cấp dịch vụ giáo dục theo kết quả đầu ra.
Cải thiện môi trường đầu tư trong
lĩnh vực giáo dục và đào tạo, bảo đảm cạnh tranh công bằng, minh bạch; có cơ chế,
chính sách mạnh mẽ thúc đẩy, khuyến khích phát triển giáo dục ngoài công lập,
nhất là các chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, tín dụng nhằm huy động các nguồn
lực đầu tư cho giáo dục và đào tạo; tập trung tháo gỡ những vướng mắc trong cơ
chế tự chủ tài chính đối với các cơ sở giáo dục, đào tạo công lập.
Hoàn thiện chính sách hỗ trợ người
học từ ngân sách nhà nước thông qua cấp học bổng hoặc hỗ trợ miễn giảm học phí
đối với các ngành, nghề Nhà nước cần ưu tiên phát triển ở các trình độ đào tạo,
mở rộng đối tượng và nâng mức ưu đãi cho vay tín dụng.
8. Đẩy mạnh hội nhập quốc
tế trong giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
phục vụ phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Tập trung nâng cao năng lực
ngoại ngữ của học sinh, sinh viên, từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ
thứ hai trong trường học.
Khuyến khích các cơ sở giáo dục
và đào tạo trong nước liên kết, hợp tác với các cơ sở giáo dục và đào tạo tiên
tiến trên thế giới. Xây dựng cơ chế, chính sách đột phá để thu hút, sử dụng
chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài về giảng dạy,
nghiên cứu và làm việc tại các cơ sở giáo dục và đào tạo trong nước; khuyến
khích, thu hút học sinh, sinh viên nước ngoài đến học tập tại Việt Nam.
Thu hút các cơ sở giáo dục đại học
uy tín trên thế giới mở phân hiệu tại Việt Nam. Tiếp tục đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước, nhất là đào tạo giảng viên
trình độ tiến sĩ và chuyên gia các ngành kỹ thuật, công nghệ mũi nhọn. Tăng cường
đưa tiếng Việt và văn hoá Việt Nam ra nước ngoài.
9. Tổ chức thực hiện
Các tỉnh uỷ, thành uỷ, ban cán sự
đảng, đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung ương tổ chức nghiên cứu, quán triệt
và xây dựng kế hoạch thực hiện Kết luận phù hợp với tình hình thực tiễn của
ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, đánh giá việc
thực hiện Kết luận.
Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng
Chính phủ chỉ đạo tập trung hoàn thiện chính sách, pháp luật và tăng cường nguồn
lực cho việc thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; thường
xuyên giám sát, thanh tra, kiểm tra việc tổ chức thực hiện Kết luận.
Ban cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo,
chỉ đạo xây dựng kế hoạch thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị; chỉ đạo tăng cường
công tác quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo, bảo đảm sự đồng bộ, liên
thông từ giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên, giáo dục
nghề nghiệp đến giáo dục đại học; cân đối, bố trí ngân sách nhà nước hợp lý cho
giáo dục và đào tạo; ban hành cơ chế, chính sách phù hợp, hiệu quả để khuyến
khích, thu hút, huy động nguồn lực xã hội, hợp tác công tư, đầu tư nước ngoài
cho phát triển giáo dục và đào tạo.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
tổ chức chính trị - xã hội xây dựng kế hoạch tuyên truyền, vận động, giám sát
việc thực hiện Kết luận.
Ban Tuyên giáo Trung ương chủ
trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức hướng dẫn nghiên cứu, học tập
và quán triệt, tuyên truyền Kết luận; thường xuyên theo dõi, giám sát, kiểm
tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện Kết luận; định kỳ sơ kết, tổng kết, báo
cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư./.